Mình vừa đọc một mạch hết cuốn Câu chuyện dòng sông (tên gốc là Siddhartha, hay Tất Đạt). Đây là cuốn tiểu thuyết kinh điển của nhà văn Đức Hermann Hesse, xuất bản lần đầu năm 1922. Rất nhiều cảm xúc vẫn đang nóng hừng hực lúc này nên nhất định phải viết xuống vài dòng (không ngờ viết được hẳn 5 nghìn chữ!!!). Đã lâu lắm rồi không đọc một tác phẩm văn chương, đã lâu lắm rồi không có một cuốn sách nào khiến mình đọc liền một mạch hết trong vòng một buổi tối. Có lẽ đọc được một cuốn sách hay cần đến cả cái duyên – để người đọc có thể đắm mình vào từng con chữ và lĩnh hội nhiều nhất có thể năng lượng nó mang lại.
Câu chuyện kể về hành trình tâm linh của một chàng trai Ấn Độ tên là Tất Đạt (không phải Đức Phật). Chàng trai trong câu chuyện này là một người tu hành theo đạo Sa Môn, nhưng sau khi lĩnh hội được toàn bộ tri thức từ các vị thầy của mình, chàng cảm thấy họ đã hết thứ để dạy cho mình và sẽ không một ai đạt được tới Niết bàn. Vì thế, chàng đã rời bỏ quê nhà để đi tìm Chánh đạo, cùng với người bạn thân của mình là Thiện Hữu.
Trên đường, chàng nghe về tiếng tăm của Đức Phật – bậc giác ngộ đã thoát khỏi luân hồi và đạt tới tỉnh giác. Hai người quyết tâm tới vườn Lộc Uyển để gặp Đức Phật. Trong chương này, Hermann Hesse đã miêu tả cảnh tượng Tất Đạt tận mắt trông thấy Bậc giác ngộ: “Đức Phật lặng lẽ đi, dáng đăm chiêu suy nghĩ. Nét mặt bình an của Ngài không sung sướng cũng không buồn khổ. Ngài dường như hiền dịu mỉm cười trong tâm với một nụ cười kín đáo không khác nụ cười của một trẻ thơ khoẻ mạnh. Người bước đi bình an, lặng lẽ. Ngài đắp y và đi bộ giống hệt các vị tỳ kheo khác nhưng nét mặt Ngài cùng bước chân Ngài, cái nhìn xuống trầm lặng và đôi tay buông thả, và mỗi ngón tay Ngài đều nói lên một niềm bình thản đầy đặn, không tìm kiếm gì, không học đòi một cái gì, mỗi ngón tay phản chiếu một sự bình lặng liên tục, một ánh sáng không phai mờ, một niềm bình an bất khả tổn thương.”
Bản thân Tất Đạt cũng có được những cảm giác hoàn toàn mới lạ và bị thu hút với Đức Phật, “chàng nhìn chăm chú vào đầu đức Phật, vào vai Ngài, vào chân, vào bàn tay buông thong thả và chàng tưởng như mỗi đốt tay của Ngài đều chứa đựng tri thức, chúng nói lên, thở ra, tuôn phát ra chân lý. Người này, đức Phật này, quả là một người thánh thiện đến từng đầu ngón tay. Chưa bao giờ Tất Đạt thấy kính trọng một người đến thế, chưa bao giờ chàng thương quí một người đến thế.”
Một người ngoan đạo như Tất Đạt đã bị khuất phục ngay từ cái nhìn đầu tiên trước Đức Phật. Sau khi nghe Ngài thuyết pháp về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Tam bảo, cả Tất Đạt và Thiện Hữu đều nhận ra là đây chân lý hoàn mỹ nhất và không gì tốt đẹp hơn. Thiện Hữu đã xin quy y và trở thành đệ tử của Đức Phật. Nhưng, với bản tính là một người ham học hỏi, bướng bỉnh và theo mình là có phần hiếu thắng, Tất Đạt vẫn quyết định rời đi, tìm kiếm con đường riêng của mình. Vì theo chàng, những lời giảng của Đức Phật là lý thuyết không thể truyền dạy, chàng không phủ nhận chúng, nhưng chàng muốn tự mình chiêm nghiệm và tìm ra Chánh đạo ấy. Thậm chí, trước khi rời đi, chàng còn đến để tranh luận với Đức Phật. Đây có thể coi là đoạn yêu thích nhất của mình.
“Hỡi đấng Giác Ngộ, trước hết tôi rất thán phục những điều Ngài dạy bảo. Mọi sự đều được chứng minh đầy đủ rõ ràng. Ngài trình bày thế giới như một sợi dây xích liên tục không đứt đoạn, một sợi dây bất tuyệt nối liền với nhau bởi nhân và quả. Chưa bao giờ vũ trụ được trình bày rõ ràng như thế, và chứng minh một cách khúc chiết như thế. Chắc hẳn một người Bà La Môn phải giật mình kinh hãi, khi qua những lời giảng dạy của Ngài, họ nhìn thấy một vũ trụ hoàn toàn mật thiết với nhau đến không có một lỗ hổng, trong suốt như pha lê, không phụ thuộc may rủi, không phụ thuộc thần linh. Thế giới tốt hay xấu, sự sống tự nó là đau khổ hay khoái lạc, sự sống bất trắc hay không, điều này không quan trọng nhưng sự nhất thể của thế giới, lẽ tương quan tương liên của mọi sự vật, lớn nhỏ bao gồm nhau, sinh thành bao gồm trong huỷ diệt: những điều Ngài dạy thật sáng lạng và phân minh. Nhưng theo những lời dạy ấy, sự nhất tính và liên tục hợp lý của mọi sự có một chỗ hở. Qua khe hở nhỏ ấy, một cái gì lạ lùng bỗng tuôn trào vào trong thế giới nhất thể này, một cái gì mới mẻ, một cái gì không có ở đấy trước kia và không thể chứng minh hay chứng nghiệm được: ấy là thuyết của Ngài về sự vươn lên trên thế giới, thuyết cứu độ. Với khe hở nhỏ này, chỗ gián đoạn bé bỏng ấy, dù sao, luật vũ trụ duy nhất không tiền khoáng hậu lại bị sụp đổ. Xin Ngài tha thứ nếu tôi đưa ra sự đối chất này.”
Dĩ nhiên, Đức Phật không phân bua với chàng, Ngài chỉ nhã nhặn đáp: “Người đã khá nghe những lời giảng dạy, hỡi người thanh niên Bà La Môn, và thật quý hoá người đã nghĩ sâu xa về những lời ấy. Người đã tìm thấy một khuyết điểm. Hãy nghĩ kỹ lại về điều đó. Ta chỉ khuyên người, một người khao khát hiểu biết, hãy tránh xa rừng quan niệm và sự xung đột giữa các danh từ. Quan niệm không có nghĩa gì, chúng có thể đẹp hay xấu, khôn hay dại và bất cứ ai cũng có thể chấp nhận hay bác bỏ. Giáo lý mà người đã nghe, tuy vậy, không phải là quan niệm của ta, và mục đích của nó không phải là để giải thích vũ trụ cho những người ham hiểu biết. Mục đích của nó hoàn toàn khác biệt. Mục đích ấy là giải thoát khỏi khổ đau. Đấy là những gì Cồ Đàm dạy, không gì khác hơn.”
Tất Đạt phản bác rằng chính Đức Phật cũng đã đạt được nhờ sự tìm kiếm của riêng Ngài và “bằng đường đi của chính Ngài, bằng suy tư, bằng thiền quán, bằng hiểu biết và trí tuệ”. Chính Đức Phật cũng không học được gì từ những lời giảng dạy của các vị thầy xưa, vì thế, Tất Đạt cho rằng cũng sẽ không ai tìm được giải thoát qua những lời chỉ giáo của Ngài.
“Ngài không thể, hỡi đấng Toàn Giác, truyền cho ai bằng danh từ và giáo lý những gì đã đến với Ngài trong giờ Ngài giác ngộ. Lời chỉ giáo của đấng Giác Ngộ bao hàm rất nhiều, dạy rất nhiều, phải sống thế nào, phải tránh điều ác như thế nào. Nhưng có một điều mà giáo lý sáng sủa và giá trị ấy không chứa đựng, ấy là những gì huyền bí mà đấng Giác Ngộ đã chứng nghiệm – Ngài độc nhất giữa hàng trăm nghìn người khác. Chính vì lẽ thế mà tôi phải đi con đường của tôi, không phải để tìm thêm một lý thuyết tốt đẹp hơn, vì tôi biết không có, nhưng để từ bỏ tất cả lý thuyết và thầy dạy, để tự mình đạt đến đích – hay chết.”
Ngôn từ của Tất Đạt cho thấy rõ chàng là một người cứng đầu, không dễ khuất phục và thậm chí có hơi hướng cực đoan. Chàng ra đi một mình với lời dặn dò cuối cùng của Đức Phật: “Ông biết ăn nói khôn khéo lắm, ông bạn. Nhưng hãy cẩn thận trước sự khôn ngoan quá mức.” Lúc đó chàng nghĩ mình đã thấy một người mà trước người ấy chàng phải cúi đầu, và chàng tự nhủ sẽ không bao giờ cúi đầu trước người nào nữa, không lời chỉ giáo nào khác sẽ quyến rũ chàng được.
Trong những ngày sau đó, Tất Đạt lang bạt khắp nơi và bỗng nhận ra một điều mà chàng đã lầm. Rằng những giáo lý chàng học được ở vườn Lộc Uyển từ Đức Phật thật sự đã được chứng nghiệm, bởi chính chàng trong một giờ sáng suốt. Chàng nhận ra rằng mục đích của chàng không ở một phía nào khác nữa.
“Vũ trụ tươi đẹp khi ta nhìn nó bằng cái nhìn này, không tìm kiếm, một cái nhìn đơn giản, cái nhìn của trẻ thơ. Trăng sao đẹp, bờ suối, bờ bể, rừng và hang đá, con dê và con nai vàng, hoa và bướm đều đẹp. Vũ trụ sẽ đẹp nếu ta nhìn thấy nó như vậy, hồn nhiên, tỉnh thức, chỉ quan tâm tới hiện tại mà không một thoáng nghi ngờ. Nơi kia mặt trời nắng gắt, nơi kia có bóng rừng im mát, nơi kia có chuối và bí ngô. Ngày và đêm đều ngắn, mỗi giờ qua nhanh như một chiếc buồm của một con tàu chở đầy kho báu, chở đầy niềm vui.”
Sau khi đạt được tỉnh giác, chàng tiếp tục chuyến hành trình và gặp gỡ Kiều Lan – người kỹ nữ xinh đẹp mà sau này trở thành bạn, thành thầy của Tất Đạt. Là một người tu tập lâu năm và lĩnh hội được tri thức khổng lồ, nhưng điều duy nhất Tất Đạt không biết chính là tình yêu. Trong lần gặp mặt thứ hai, Tất Đạt nói với Kiều Lan: “Nếu nàng không phật ý, hỡi nàng Kiều Lan, tôi yêu cầu nàng hãy là bạn và thầy của tôi, vì tôi không biết tí gì về nghệ thuật mà nàng đang nắm vững. Làm bạn với nàng và học nơi nàng những lạc thú của ái tình… Nàng sẽ thấy tôi là một người học trò có khả năng.” Dĩ nhiên, một người ham học hỏi như Tất Đạt không thể nào bỏ qua bất kỳ môn học mới lạ nào rồi! Và quả thực như lời chàng đã hứa hẹn, chàng trở thành “người tình tài giỏi nhất” của Kiều Lan. Thế nhưng, sau tất cả những bài học mà chàng học được từ Kiều Lan, rằng “người ta có thể cầu xin, mua, được tặng hay gặp tình yêu trên các nẻo đường, nhưng tình yêu không bao giờ trộm cướp được”, rằng “không ai có thể hưởng thụ khoái lạc mà không đồng thời ban bố nó”, hay “những người yêu đương không nên rời nhau sau khi âu yếm mà không cảm phục nhau, để cho không có cảm giác ngấy chán hay cô đơn nào phát sinh, và nhất là không có cái cảm giác khủng khiếp là mình đã lạm dụng hay bị lạm dụng”, chàng vẫn phải rời đi. Bởi cả chàng và Kiều Lan đều hiểu rõ hiện thực, rằng một người đàn ông tu tập Sa Môn và một kỹ nữ thì không có tình yêu.
“Anh vẫn còn là một Sa Môn, anh không thực sự yêu em, anh không yêu ai cả. Có phải thế không?”
“Tôi cũng như em, em cũng không thể yêu. Nếu không, làm sao em có thể luyện tập về yêu đương như một nghệ thuật… Có lẽ những người như chúng ta không thể yêu đương. Những người thường tình kia, mới có thể yêu đương được – đấy là bí quyết của họ.”
“Những người thường tình kia mới có thể yêu đương được – đấy là bí quyết của họ.” Mình không chắc khi nói những lời này, cảm giác của Tất Đạt là tiếc nuối hay buồn bã hay không gì cả. Nhưng có một sự thực là, yêu đương là một đặc ân của người “thường tình” như chúng ta, và hiếm ai có thể đánh đổi nó lấy sự tỉnh thức để thoát khỏi luân hồi.
Trong thời gian làm bạn và học từ Kiều Lan, Tất Đạt cũng quen với Vạn Mỹ – một thương gia. Ông ta dạy cho chàng về tiền bạc, về buôn bán. Nhưng rõ ràng, ông ta phải học ở chàng rất nhiều, bao gồm sự suy tư. Lần nọ, chàng đi đến một ngôi làng để thu mua mùa lúa lớn. Khi chàng đến đấy, lúa đã bị bán cho một thương gia khác nhưng chàng vẫn ở lại trong làng rất lâu để giao du với những người chủ trại, cho trẻ con tiền bạc, dự một đám cưới và trở về một cách thỏa mãn. Vạn Mỹ trách chàng đã không về ngay, để phí thời giờ và tiền bạc. Tất Đạt trả lời: “Bạn ơi, đừng có trách móc. Không việc gì thành tựu bằng lời khiển trách cả. Nếu có sự tổn thất nào, tôi sẽ chịu. Tôi rất bằng lòng chuyến du lịch này. Tôi đã được quen rất nhiều người, thân với người Bà La Môn, trẻ con đã ngồi trên gối tôi, những người chủ trại đã chỉ cho tôi xem những cánh đồng của họ. Không ai xem tôi là một thương gia cả… Tôi đã được tình bạn và lòng tin cậy. Nếu tôi là Vạn Mỹ, tôi đã bực bội bỏ ra về ngay khi thấy mình không mua chác được, mà lại tốn thì giờ, tiền bạc. Đằng này tôi đã trải qua những giờ tươi đẹp, học thêm nhiều điều, hưởng nhiều thú vui và không làm hại chính tôi cũng như kẻ khác vì sự bực dọc hay vội vàng. Nếu có dịp nào đến lại chỗ ấy, những người thân sẽ đón tiếp tôi, và tôi sẽ sung sướng vì lần trước tôi không tỏ ra vội vã bất bình. Dù sao, hãy gác câu chuyện ấy lại, ông bạn ạ, và đừng tự dày vò mình với những lời trách móc.”
Sau tất cả những gì đã trải qua, trong một thời gian khá lâu, Tất Đạt sống nếp sống của thế tục mà “không dự phần vào thế tục”, chàng đã nếm mùi của cải, đam mê và thế lực, nhưng chàng vẫn còn là Sa Môn một thời gian rất lâu trong tâm khảm. Sự thức tỉnh huy hoàng mà chàng đã hơn một lần chứng nghiệm lúc thiếu thời, vào những ngày sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, sau khi từ giã Thiện Hữu, sự thức tỉnh bén nhạy kia, lòng kiêu hãnh được đứng độc lập không cần thầy hay thuyết lý, lòng hăm hở nghe tiếng diệu âm nội tại… tất cả đã dần trôi qua và trở thành ký ức. Những điều chàng học ở các vị Sa Môn, ở đức Phật, ở cha chàng, ở các vị Bà La Môn (một cuộc sống điều độ, lạc thú của tư duy, những giờ thiền định, tri thức huyền nhiệm về Tự ngã, về cái Ta vĩnh cữu không phải thân thể cũng không phải ý thức), nhiều điều chàng còn giữ lại, nhiều điều đã chìm xuống dưới làn bụi bao phủ.
Tác giả đã dành toàn bộ Chương 7 “Khổ đau” để miêu tả đến cùng cực cảm giác của Tất Đạt khi chìm vào những ham muốn của nếp sống thế tục; lạc thú, tham lam, lười biếng và cuối cùng cả đến tính dồn của, thói tục mà chàng vẫn xem thường, khinh bỉ vì nó điên rồ nhất. Tài sản, vật sở hữu và của cải, cuối cùng đã bẫy chàng. Mãi đến khi nghe Kiều Lan đã thở dài nói: “Một ngày kia, có lẽ không lâu, em cũng sẽ đi theo đức Phật ấy. Em sẽ dâng Ngài khu vườn chơi của em và qui y theo giáo lý của Ngài”, Tất Đạt mới như bừng tỉnh. Chàng nhớ về cuộc hành trình đi tìm Chánh đạo của mình, từ khi rời nhà và chọn đời sống Sa Môn, khi chàng rời những vị Sa Môn để đến đức Phật, và khi chàng rời đức Phật để tiếp tục con đường vô định này – biến thành một Vạn Mỹ khác. Chàng đã quá chán ngán với những điều ấy và cuối cùng, chàng rời bỏ thành phố. Vạn Mỹ tưởng chàng bị bắt cóc, còn Kiều Lan chẳng mấy ngạc nhiên khi nghe tin chàng biến mất. Từ hôm ấy, nàng đóng cửa không tiếp khách, nàng thả con chim đã nuôi bấy lâu ra khỏi lồng và nhận ra mình đã có thai với Tất Đạt.
Trong khi ấy, Tất Đạt, vì quá lạc lõng, quá bối rối, quá mất lương tri đến nỗi muốn tìm cái chết dưới gốc cây dừa bên cạnh dòng sông – nơi mà chàng đã ra đi sau cuộc hội ngộ với Đức Phật. Tỉnh giấc sau một giấc ngủ thiếp bên bờ sông, chàng gặp lại Thiện Hữu – bấy giờ đã là một nhà sư áo vàng đang đi hành hương. Ngạc nhiên là Thiện Hữu đã không nhận ra Tât Đạt cho tới khi chàng gọi tên anh ta. Mình ấn tượng với câu nói của Tất Đạt khi đáp lại câu hỏi của Thiện Hữu, rằng “tôi mất của cải, hay chúng đã mất tôi, tôi không chắc. Đâu là Tất Đạt con người Sa Môn, đâu là Tất Đạt giàu có. Cái gì giả tạm sẽ thay đổi ngay”. Tất Đạt quyết định nán lại bên dòng sông, như lời của người lái đò đưa chàng qua sông năm xưa “Người ta có thể học được rất nhiều từ một dòng sông. Tôi cũng học điều này từ con sông nữa. Mọi sự đều trở về.” Dòng sông vẫn luôn ở đó nhưng mỗi giây phút nó đều mới mẻ. Tất Đạt xin ở lại trong căn lều của người lái đò để học cách trông coi và lái đò như một người trợ tá. Nhiều năm nữa qua đi, người ta đã quen với việc có hai anh em lái đò sống cạnh dòng sông. Cho đến một ngày, từng đoàn người tập nập kéo đến nhờ họ chở qua sông để đến đưa tiễn vị Chánh đẳng giác sắp qua đời. Tin Đức Phật sắp qua đời khiến Tất Đạt nhớ về những lời nói ngạo mạn năm xưa với Ngài. Trong một thời gian khá lâu, chàng biết rằng chàng không xa đức Cồ Đàm, dù chàng không thể chấp nhận giáo lý của Ngài. Thật vậy, “một kẻ thực sự đi tìm kiếm, không thể chấp nhận bất cứ lý thuyết nào, nếu kẻ ấy thành tâm muốn tìm ra một cái gì”.
Ngạc nhiên rằng, trong số những người hành hương về đất Phật để tiễn đưa Ngài, có mẹ con Kiều Lan. Gặp lại nhau sau bao năm tháng xa cách, ngày phát hiện ra mình có một đứa con trai cũng là ngày cuối cùng chàng được ở cạnh Kiều Lan. Nàng qua đời vì bị rắn độc cắn. Tất Đạt ngồi lặng yên bên dòng sông rất lâu, để “lắng nghe dòng sông. Nó đã nói với tôi rất nhiều, nó đã cho tôi đầy những tư tưởng lớn lao, những tư tưởng về sự Nhất thể”. Từ đây, cuộc hành trình của Tất Đạt bước sang một trang mới – chứa đựng thứ mà trước kia chàng nghĩ rằng mình sẽ không có được – tình yêu. Tình yêu dành cho đứa con. Có một câu nói mình từng đọc trong một cuốn sách khác và khiến mình ấn tượng: “Khi ta nếm trải mùi vị của tình yêu cũng là lúc ta biết được hình hài của nỗi buồn”. Và quả thế, toàn bộ Chương 10 “Đứa con” đã miêu tả rõ nét những lo âu, đau khổ của Tất Đạt. Chàng từ bỏ niềm an nhiên của sự cô độc để đón nhận lo âu của niềm hạnh phúc có một đứa con. Chàng đã trở nên giống hệt mọi người, quá buồn khổ vì quá yêu thương. Chàng cuồng dại trong tình yêu. Nhưng dẫu vậy, chàng không thể rũ bỏ thực tại rằng đứa trẻ không thuộc về nơi này như lời người lái đò nói, rằng “Con chim non kia quen với một đời sống khác, một chiếc tổ khác… Nước sẽ tìm đến nước, tuổi trẻ sẽ tìm đến tuổi trẻ”. Dù hết lòng nhẫn nhịn, yêu thương, nhưng đứa bé cuối cùng đã rời bỏ hai người để trốn về thành phố.
Tất Đạt trở về túp lều sau cuộc tìm kiếm bất thành, chàng tiếp tục công việc chở khách qua sông. Họ dù là ai, tốt hay xấu, đều có con cái, đều được yêu thương con cái, chỉ trừ chàng – đó là một lý luận có phần trẻ con và vô lý, như bao người thường tình khác. Nhưng có sao, vì Tất Đạt bây giờ đã khác, chàng nhìn đời một không giống trước nữa: “không quá khôn ngoan, không quá kiêu hãnh và vì thế tò mò, thân mật hơn.” Chàng không còn xa cách với những người thường tình nữa, không còn tự cho mình hơn họ; những ước muốn phù phiếm của họ bỗng chốc trở nên dễ hiểu với chàng. Chàng thấy người ta sống và làm việc lớn, du ngoạn, chiến tranh, đau khổ và chịu đựng một cách bao la, và chính vì thế chàng yêu họ. “Chàng thấy cuộc đời, sức sống, Đại ngã bất khả huỷ diệt ở trong mọi dục vọng và yêu cầu đó”. Họ chẳng thiếu thứ gì mà những bậc hiền triết có, trừ một điều rất nhỏ – sự Nhất thể của mọi cuộc đời. Nhưng chính bản thân Tất Đạt nhiều khi cũng nghi ngờ cái ý niệm đó, chẳng hiểu nó có quan trọng đến thế hay không, hay cũng chỉ là sự tự phụ trẻ con của những nhà tư tưởng?
“Mọi sự nếu không được chịu đựng cho đến cùng để kết thúc, sẽ trở lại, và những buồn khổ tương tự lại phải tiếp diễn.” Đó là một trong những điều mà Tất Đạt lắng nghe được từ dòng sông. Nhìn vào dòng nước đang cuộn chày, chàng thấy cha chàng cô đơn, đang khóc lóc vì chàng rời bỏ gia đình; chàng thấy chính chàng, cô độc và quằn quại nhớ nhung đứa con chàng đã bỏ đi; và chàng thấy con chàng cũng đơn độc, đang tiến lên con đường bốc cháy vì những dục vọng của đời. Mọi người đều chú tâm vào mục đích của mình, bị ám ảnh bởi mục đích ấy, và khổ đau.
Và khi Tất Đạt chú ý lắng nghe dòng sông, không nghe riêng rẽ nỗi buồn thảm hay tiếng cười, không ràng buộc hồn mình với tiếng nào riêng biệt và để nó thâm nhập vào Tiểu ngã của mình, mà trái lại, chàng “nghe tất cả những tiếng ấy, cái toàn diện, cái Nhất thể, thì lúc ấy cung đàn vĩ đại có muôn ngàn âm thanh kia chỉ bao hàm có một tiếng “Om” – tức là Toàn Thiện”. Vết thương đang lành, niềm đau đang tan biến, Tiểu ngã chàng đã hoà vào Nhất thể.
Không hẳn ai đọc cuốn sách này cũng sẽ hiểu hết về “Om”, về Nhất thể, về Toàn thiện, nhưng không cần lo lắng về điều đó, cũng không cần đặt ra mục đích phải hiểu cặn kẽ về chúng. Bởi sau tất cả, những điều mà mọi người học được từ cuốn sách này là rất nhiều, về cái tôi, về tình cảm gia đình, về tình yêu thương, về con đường mình đi. Chương cuối nhắc đến một lần Thiện Hữu tìm đến gặp người lái đò chở khách qua sông – tức Tất Đạt, Thiện Hữu nói rằng “Tôi già nua thật, nhưng tôi chưa bao giờ thôi tìm kiếm. Tôi sẽ không bao giờ thôi tìm kiếm. Đấy như là định mệnh của tôi” và hỏi Tất Đạt về những điều mà chàng tìm kiếm được.
Tất Đạt đã nói: “Khi một người tìm kiếm, thì thường thường anh ta chỉ thấy có điều mà anh ta tìm kiếm; và anh ta không thể gặp được cái gì, không thể thu nhận được gì, bởi anh ta chỉ nghĩ về điều anh ta đang tìm, bởi anh ta có mục đích, và bị ám ảnh vì mục đích ấy. Tìm kiếm có nghĩa là mục đích, nhưng “gặp” có nghĩa là tự do tự tại, sẵn sàng đón nhận, không có mục đích cố định nào.”
Khi nhận ra Tất Đạt là bạn mình, Thiện Hữu đã rất ngạc nhiên và muốn hỏi thăm xem bây giờ Tất Đạt đã có được lý thuyết gì cho riêng mình hay chưa, sau khi rời bỏ rất nhiều vị thầy, thậm chí cả Đức Phật. Quả thực, Tất Đạt học từ rất nhiều người, từ những người Bà La Môn thủa nhỏ, từ các vị Sa Môn, từ Đức Phật, từ người bạn lái đò và cả dòng sông, nhưng thật khó để diễn giải chúng thành một hệ tư tưởng. Nếu phải nói điều nào khiến Tất Đạt chú ý nhất, có lẽ là “Sự khôn ngoan không thể truyền cho kẻ khác. Trí tuệ mà một người hiền triết cố truyền lại luôn luôn nghe có vẻ điên rồ.”
“Kiến thức có thể truyền được nhưng trí tuệ thì không. Người ta có thể tìm thấy nó, sống trong nó, được thêm sức mạnh vì nó, làm nên những phép lạ nhờ nó, nhưng người ta không thể truyền dạy nó được.”
“Trong mọi sự thật, điều ngược lại cũng đúng không kém.”
“Khi đức Phật dạy về thế giới, Ngài phải phân chia thành Khổ đế và Niết Bàn, thành Vọng và Chân, thành khổ đau và giải thoát. Nhưng thế giới tự nó, ở trong ta và xung quanh ta, thì lại không bao giờ phiến diện. Không bao giờ một người hay một sự việc lại thuần khổ hay thuần lạc, không bao giờ một người lại thuần là thánh thiện hay thuần tội lỗi.”
“Thời gian không thực có, Thiện Hữu. Tôi đã luôn luôn trực nhận điều này. Và nếu thời gian không thực có, thì đừng tưởng tượng ngăn chia cõi đời này với cõi vô cùng, ngăn chia thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, tất cả cũng chỉ là một ảo tưởng…”
Thiện Hữu nghe những lời của ông bạn cũ, bỗng bị thu phục. Cả đời tu tập đi tìm Chánh đạo nhưng chưa được thấy, phải nhờ đến Tất Đạt khai sáng. Có ý kiến cho rằng Tất Đạt là biểu trưng cho Trung đạo: không kiêu hãnh về sự thành đạt của mình, nhưng cũng không đắm say thế tục.
Cuối cùng, hình tượng dòng sông gắn liền với cuộc đời của Tất Đạt và xuyên suốt nửa sau tác phẩm, đã nói lên nhiều điều hơn thế: đó là dòng đời, là sự nhất thể, là sự trở về, vừa là biệt ly vừa là trùng ngộ…
Mình từng tìm hiểu chút ít về Phật giáo, về con đường tu tập của Đức Phật, dĩ nhiên, không bao giờ là đủ để hiểu hết được một tư tưởng triết lý của một tôn giáo. Vì thế, mình cũng không thể thấy được hết sự khác biệt hay điểm giống nhau giữa Phật pháp và những ý tưởng của Tất Đạt (hay chính xác là của tác giả Hermann Hesse). Nhưng rõ ràng, mọi thứ đều quay về cái gọi là tính toàn thể. Và còn nhiều thứ khác có thể học được từ Câu chuyện dòng sông mà mình không muốn nói hết ra đây. Mỗi người đọc cuốn sách này, chắc chắn sẽ tự lĩnh hội được những thứ cần lĩnh hội, phù hợp trong trường cảm xúc của bản thân.